[DE - EN - ES - FR - IT - PT - UK - VI]
BỘ GIÁO
LÝ ĐỨC TIN
Thư Placuit Deo
Kính gửi các Giám mục của Hội Thánh Công Giáo
Về một vài khía cạnh của ơn cứu độ Kitô giáo
I. Dẫn nhập
1. “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa
đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x.
Ep 1,9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa
Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần
vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 P 1,4). Chân lý
thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người được
bày tỏ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là
sự viên mãn của toàn thể mặc khải”.[1] Giáo
huấn về ơn cứu độ trong Đức Kitô phải luôn được đào sâu. Kiên định
nhìn về Chúa Giêsu, Giáo hội hướng tới mọi người với lòng từ mẫu, để
loan báo cho họ ý định Giao ước của Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần,
“nhằm quy tụ mọi sự trong Đức Kitô, thủ lãnh duy nhất” (Ep
1,10). Trong ánh sáng của truyền thống đức tin vĩ đại, cùng với sự
tham chiếu đặc biệt vào những lời giảng dạy của Đức Giáo hoàng
Phanxicô, lá thư này muốn làm sáng tỏ một vài khía cạnh của ơn cứu
độ Kitô giáo có thể khó hiểu trong thời đại hôm nay, vì những biến
đổi văn hóa mới mẻ.
II. Tác động của những biến đổi văn hoá hiện
nay trên ý nghĩa của ơn cứu độ Kitô giáo
2. Thế giới ngày nay thật khó thông hiểu việc
tuyên xưng đức tin Kitô giáo vốn công bố Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ
duy nhất của con người toàn vẹn và của toàn thể nhân loại (x. Cv
4,12; Rm 3,23-24; 1 Tm 2,4-5; Tt 2,11-15).[2] Một
mặt, chủ nghĩa cá nhân tập trung vào chủ thể tự quản muốn nhìn con
người như một hữu thể mà sự thành toàn duy nhất của bản thân chỉ tuỳ
thuộc vào sức riêng mình.[3] Trong cách nhìn
này, khuôn mặt Đức Kitô xuất hiện như một mẫu gương gợi hứng cho
những hành động quảng đại nhờ lời nói và nghĩa cử của Người, hơn là
Đấng biến đổi thân phận con người, bằng cách tháp nhập chúng ta vào
đời sống mới, giao hòa chúng ta với Chúa Cha và với nhau, trong
Thánh Thần (x. 2 Cr 5,19; Ep 2,18). Mặt khác, cái nhìn
về ơn cứu độ thuần tuý nội tâm đang trở thành phổ biến. Được biểu
hiện bằng một xác tín hoặc sự cảm nhận cá nhân mãnh liệt được hợp
nhất với Thiên Chúa, lối nhìn này không thấy cần thiết phải đảm
nhận, chữa lành và làm mới lại các mối tương quan của chúng ta với
tha nhân và với thế giới thụ tạo. Trong viễn cảnh này, thật khó để
hiểu ý nghĩa việc Nhập Thể của Ngôi Lời, nhờ đó Người đã trở nên một
thành viên của gia đình nhân loại, mặc lấy xác phàm và lịch sử của
chúng ta, vì chúng ta và ơn cứu độ của chúng ta.
3. Trong giáo huấn thông thường của mình, Đức
Giáo hoàng Phanxicô thường nhắc đến hai khuynh hướng được mô tả ở
trên. Hai khuynh hướng này giống với một vài khía cạnh của hai lạc
thuyết cổ xưa, thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo.[4] Một
hình thái mới của thuyết Pêlagiô đang được truyền bá trong thời đại
chúng ta, theo đó cá nhân được hiểu là tự quản triệt để, có tham
vọng tự cứu lấy chính mình mà không nhận thức rằng, ở tận thẳm sâu
nhất của chính mình, cá nhân ấy tuỳ thuộc vào Thiên Chúa và tha
nhân. Theo lối suy tư này, ơn cứu độ tuỳ thuộc vào sức riêng của cá
nhân, hoặc vào những cơ cấu thuần tuý nhân loại, không có khả năng
tiếp nhận tính mới mẻ của Thần Khí Thiên Chúa.[5] Mặt
khác, một hình thái mới của thuyết Ngộ đạo trình bày một khuôn mẫu
về ơn cứu độ thuần tuý nội tâm, đóng kín trong thuyết duy chủ thể
của riêng mình.[6] Theo khuôn mẫu này, ơn cứu
độ hệ tại việc tự hoàn thiện bản thân, “nhờ tri thức, có khả năng
vượt lên trên thân xác Chúa Giêsu, đạt tới những mầu nhiệm thần tính
vô danh.[7] Khuôn mẫu này muốn giải thoát con
người khỏi thân xác và vũ trụ vật chất, trong đó những dấu vết bàn
tay quan phòng của Đấng Tạo Hóa không còn tìm thấy, nhưng chỉ có một
thực tại mất hết ý nghĩa, xa lạ với căn tính nền tảng của con người,
và dễ bị thao túng bởi những lợi lộc của con người.[8] Rõ
ràng, việc so sánh với những lạc thuyết Pêlagiô và Ngộ đạo chỉ muốn
nhắc lại những nét đặc trưng chung và tổng quát, mà không đi vào
những đánh giá về bản chất đích thật của những sai lầm thời cổ xưa.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa xã hội tục hóa hiện đại và bối cảnh
xã hội của Kitô giáo buổi ban đầu, trong đó hai lạc thuyết này phát
sinh.[9] Tuy nhiên, trong mức độ thuyết Ngộ
đạo và thuyết Pêlagiô tiêu biểu cho những nguy hại dai dẳng vì hiểu
sai đức tin Kinh Thánh, [chúng ta] có thể tìm thấy những điểm tương
đồng giữa những lạc thuyết cổ xưa và những khuynh hướng hiện đại vừa
được mô tả.
4. Cả chủ nghĩa cá nhân tân Pêlagiô lẫn thái độ
khinh thị thân xác tân Ngộ đạo đều gây tổn hại cho việc tuyên xưng
niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Làm thế nào
Đức Kitô có thể trở nên trung gian Giao ước của toàn thể gia đình
nhân loại, nếu các nhân vị bị tách biệt thành những cá thể, tự thành
toàn bản thân bằng những nỗ lực của riêng mình, như thuyết tân
Pêlagiô đề xướng? Cũng vậy, làm sao ơn cứu độ có thể đến với chúng
ta, nhờ việc Nhập Thể của Chúa Giêsu, [nghĩa là] đời sống, cái chết
và sự Phục sinh trong thân thể đích thật của Người, nếu hiểu ơn cứu
độ chỉ là sự giải thoát thực tại nội tâm của con người khỏi những
giới hạn của thân xác và vật chất, như lối nhìn tân Ngộ đạo mô tả?
Đối diện với hai khuynh hướng này, lá thư hiện hành muốn khẳng định
lại rằng ơn cứu độ hệ tại việc kết hợp với Đức Kitô, là Đấng mà nhờ
việc Nhập Thể, cái Chết và sự Phục sinh của Người, đã mang đến một
thể thức tương quan mới mẻ với Chúa Cha và giữa con người với nhau,
dẫn chúng ta vào trong những mối tương quan này, nhờ hồng ân Thánh
Thần, để chúng ta có thể kết hợp với Chúa Cha như những người con
trong Người Con, và trở nên một thân thể trong Đấng là “Trưởng Tử
giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29).
III. Con người khát khao ơn cứu độ
5. Cách trực tiếp hoặc gián tiếp, con người nhận
biết chính mình như một mầu nhiệm: “Tôi là ai? Tôi hiện hữu, nhưng
không có nguyên lý hiện hữu của chính mình nơi bản thân”. Mỗi người
đều tìm kiếm hạnh phúc theo cách thức của riêng mình, và cố gắng để
đạt được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào những phương thế sẵn có.
Tuy nhiên, niềm khát vọng phổ quát này không nhất thiết được biểu lộ
hay tỏ bày; đúng hơn, niềm khát vọng ấy thường là bí mật và được ẩn
giấu hơn là được tỏ bày, và niềm khát vọng ấy sẵn sàng tỏ hiện chính
mình khi gặp phải những khủng hoảng đặc biệt. Thông thường, niềm
khát vọng này trùng hợp với ước vọng về sức khoẻ thể lý; đôi khi,
khát vọng mặc lấy hình thức lo toan cho phúc lợi kinh tế lớn lao
hơn; nhưng cách phổ biến, khát vọng ấy tự biểu lộ như nhu cầu an
bình nội tâm và đời sống chung hòa bình với tha nhân. Mặt khác, công
cuộc tìm kiếm ơn cứu độ, tự tỏ bày như niềm khát vọng điều thiện hảo
lớn lao hơn, vẫn duy trì nghị lực phản kháng và vượt thắng đau khổ.
Đi đôi với cuộc chiến đấu tìm kiếm sự thiện là cuộc chiến đấu chống
lại sự ác: ngu dốt và lầm lỗi, mong manh và yếu đuối, bệnh tật và
chết chóc.
6. Lưu tâm đến những khát vọng này, và bác bỏ mọi
tham vọng tự thành toàn, niềm tin vào Đức Kitô dạy rằng những khát
vọng này chỉ có thể được thành toàn cách trọn vẹn nếu chính Thiên
Chúa làm cho chúng nên khả thể, bằng cách lôi cuốn chúng ta đến với
Ngài. Ơn cứu độ con người toàn vẹn không hệ tại những gì con người
có thể đạt được nhờ sức riêng mình, như tài sản, phúc lợi vật chất,
kiến thức hoặc tài năng, quyền lực hoặc sức ảnh hưởng trên người
khác, thanh danh hoặc sự tự mãn.[10] Chẳng
có loài thụ tạo nào có thể làm chúng ta thoả mãn trọn vẹn, vì Thiên
Chúa đã định phần cho chúng ta được hiệp thông với Ngài, và lòng
chúng ta sẽ chỉ được yên nghỉ khi nghỉ yên trong Ngài.[11] “Thật
vậy, ơn gọi chung cuộc của con người là duy nhất và thần linh”.[12] Như
thế, Mặc Khải không tự giới hạn vào việc loan báo ơn cứu độ được
hiểu như đáp số cho bất kỳ ước muốn đặc thù nào của thời đại. “Trái
lại, nếu ơn cứu độ được đánh giá hay đo lường theo những nhu cầu
hiện sinh của con người, làm sao chúng ta không thể hoài nghi việc
chỉ tạo ra một Thiên Chúa - Đấng Cứu Độ theo những nhu cầu của chính
chúng ta?”[13]
7. Cũng phải khẳng định rằng, theo niềm tin Kinh
Thánh, nguồn gốc của sự ác không tìm thấy được trong thế giới vật
chất hữu hình, được trải nghiệm như một giới hạn hoặc một ngục tù,
khiến chúng ta muốn được giải thoát khỏi thế giới ấy. Trái lại, niềm
tin Kinh Thánh công bố rằng toàn thể vũ trụ đều tốt lành vì đã được
Thiên Chúa sáng tạo (x. St 1,31; Kn 1,13-14; 1 Tm
4,4), rằng sự ác nguy hại nhất đối với con người là sự ác xuất phát
từ lòng người (x. Mt 15,18-19; St 3,1-19). Khi phạm
tội, con người đã ruồng bỏ nguồn suối tình yêu, và tự đánh mất bản
thân trong những hình thức yêu thương lệch lạc, nhốt kín con người
hơn trong chính bản thân mình. Chính việc xa lìa Thiên Chúa, Đấng là
nguồn suối của sự hiệp thông và sự sống, đã làm mất đi sự hài hoà
giữa con người với nhau và giữa nhân loại với thế giới, dẫn đến tình
trạng thống trị của sự hự mất và sự chết (x. Rm 5,12). Vì
thế, ơn cứu độ mà đức tin loan báo cho chúng ta không chỉ liên quan
đến thực tại nội tâm của chúng ta, nhưng toàn vẹn hữu thể chúng ta.
Thật vậy, con người toàn vẹn, thân xác và linh hồn, đã được tình yêu
Thiên Chúa tạo dựng, theo hình ảnh và giống như Ngài, được mời gọi
sống hiệp thông với Ngài.
IV. Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và Ơn Cứu Độ
8. Chẳng một phút giây nào trong dòng lịch sử,
Thiên Chúa lại ngừng ban ơn cứu độ cho con cái Ađam (x. St
3,15), nhờ việc thiết lập giao ước của Ngài với toàn thể nhân loại
qua ông Nôe (x. St 9,9), và sau đó, với Abraham và dòng dõi
của ông (x. St 15,18). Vì thế, ơn cứu độ của Thiên Chúa mặc
lấy trật tự thụ tạo vốn được toàn thể nhân loại chia sẻ, và ơn cứu
độ ấy đồng hành cùng lộ trình cụ thể của nhân loại trong lịch sử.
Bằng việc chọn một dân tộc và ban cho họ các phương tiện để chống
lại tội lỗi và đến gần với Ngài, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho việc ngự
đến của “một Vị Cứu Tinh quyền thế, từ nhà Đavít, tôi tớ Ngài” (Lc
1,69). Khi thời gian đến hồi viên mãn, Chúa Cha đã sai Người Con của
Ngài đến thế gian; Người Con ấy đã loan báo Nước Thiên Chúa, chữa
lành mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 4,3). Những việc chữa
lành mà Chúa Giêsu thực hiện, qua đó Người làm tỏ rạng sự quan phòng
của Thiên Chúa, là dấu chỉ qui hướng về chính bản thân Người, Đấng
được mặc khải trọn vẹn như là Chúa của sự sống và sự chết trong biến
cố Vượt Qua của Người. Theo Tin Mừng, ơn cứu độ cho toàn thể nhân
loại bắt đầu bằng việc đón nhận Chúa Giêsu: “Hôm nay ơn cứu độ đã
đến cho nhà này” (Lc 19,9). Tin Mừng cứu độ có một tên gọi và
một khuôn mặt: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. “Trở
nên Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một
ý tưởng cao cả, nhưng là kết quả của cuộc gặp gỡ với một biến cố,
một con người, cuộc gặp gỡ trao tặng cho đời sống một chân trời mới
và một định hướng dứt khoát”.[14]
9. Qua dòng lịch sử hằng bao thế kỷ, với nhiều
diện mạo, đức tin Kitô giáo đã làm tỏ rạng công trình cứu độ của
Người Con Nhập Thể. Công trình cứu độ ấy được thực hiện mà không hề
có sự tách biệt giữa chiều kích chữa lành của ơn cứu độ, nhờ đó Chúa
Kitô cứu chúng ta khỏi tội lỗi, với chiều kích vinh thăng, nhờ đó
Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, bằng
việc thông phần bản thể thần linh của Người (x. 2 Pr 1,4).
Khi nhìn viễn cảnh cứu độ theo hướng từ trên xuống, nghĩa là khởi sự
từ Thiên Chúa, Đấng đến cứu độ con người, Chúa Giêsu là Đấng soi
sáng và mặc khải, cứu chuộc và giải thoát, thần linh hóa và công
chính hóa con người. Theo cái nhìn từ dưới lên, nghĩa là khởi sự từ
con người qui hướng lên Chúa, Chúa Kitô là vị Thượng Tế của Giao Ước
Mới, dâng lên Chúa Cha việc thờ phượng hoàn hảo, nhân danh toàn thể
nhân loại: Người tự hiến, đền tội và hằng sống để chuyển cầu cho
chúng ta. Bằng cách này, một sự hợp nhất lạ lùng giữa hành động thần
linh và nhân loại tỏ hiện trong đời sống của Đức Giêsu, một sự hợp
nhất chỉ cho thấy rõ lối nhìn cá nhân chủ nghĩa là không có nền
tảng. Cái nhìn từ trên xuống làm chứng cho tính trổi vượt tuyệt đối
của những hành động nhưng không của Thiên Chúa; vượt trước mọi hành
động của chúng ta, sự khiêm nhường là điều thiết yếu để đáp lại tình
yêu cứu độ của Thiên Chúa và là điều kiện cần thiết để lãnh nhận quà
tặng của Ngài. Đồng thời, cái nhìn hướng lên nhắc nhớ rằng, nhờ
những hành động hoàn toàn nhân loại của Người Con của Ngài, Chúa Cha
muốn đổi mới hành động của chúng ta, để một khi nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô, chúng ta có thể thực hiện “những công trình tốt
đẹp mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10).
10. Hơn nữa, rõ ràng ơn cứu độ Chúa Giêsu mang
đến nơi bản thân Người không xảy ra theo cách thức thuần tuý nội
tại. Quả thực, Người Con đã mặc lấy xác phàm, để chia sẻ cho mọi
người sự hiệp thông cứu độ với Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Bằng
việc mặc lấy xác phàm (x. Rm 8,3; Dt 2,14; Ga
4,2), và sinh ra bởi người nữ (x. Gl 4,4), “Con Thiên Chúa đã
trở nên con loài người”[15] và nên anh em
của chúng ta (x. Dt 2,14). Như thế, vì đã trở nên thành phần
của gia đình nhân loại, “Người đã liên kết với hết mọi người cách
nào đó”[16] và đã thiết lập một thể thức
tương quan mới mẻ với Thiên Chúa, Cha của Người, và với toàn thể
nhân loại; chúng ta có thể được tháp nhập vào thể thức tương quan
mới mẻ này và thông phần vào chính sự sống của Con Thiên Chúa. Bởi
thế, việc mặc lấy xác phàm chẳng những không giới hạn hành động cứu
độ, mà còn cho phép Đức Kitô trở nên trung gian ơn cứu độ của Thiên
Chúa cho toàn thể con cái Ađam.
11. Tóm lại, để trả lời cho cả chủ thuyết giản
lược mang tính cá nhân chủ nghĩa theo khuynh hướng Pêlagiô, lẫn lời
hứa về ơn cứu độ thuần tuý nội tại theo khuynh hướng tân Ngộ đạo,
chúng ta cần nhận biết cách thức nhờ đó Chúa Giêsu trở thành Đấng
Cứu Độ. Người đã không tự giới hạn vào việc chỉ giới thiệu cho chúng
ta con đường gặp gỡ Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể tiến bước
trên nẻo đường riêng của chúng ta, bằng việc vâng nghe lời Người và
noi theo gương Người. Đúng hơn, Chúa Kitô mở cho chúng ta cánh cửa
tự do, và chính Người trở thành con đường: “Thầy là đường” (Ga
14,6).[17] Hơn nữa, lộ trình này không chỉ
là một hành trình nội tâm ở bên lề các mối tương quan của chúng ta
với người khác và với thế giới thụ tạo. Đúng hơn, Chúa Giêsu đã ban
tặng chúng ta một “con đường mới và sống động qua bức màn chính là
thân xác Người” (Dt 10,20). Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ vì Người
đã mặc lấy toàn vẹn nhân tính của chúng ta và đã sống một cuộc sống
nhân loại trọn vẹn trong sự hiệp thông với Cha của Người và với tha
nhân. Vì thế, ơn cứu độ hệ tại việc tháp nhập chúng ta vào trong sự
sống của Người, nhờ lãnh nhận Thần Khí của Người (x. 1 Ga
4,13). Người đã trở thành, “theo cách thế đặc biệt, nguồn cội của
mọi ân sủng theo nhân tính của Người.”[18] Người
vừa là Đấng Cứu Độ vừa là Ơn Cứu Độ.
V. Ơn cứu độ trong Giáo hội, Thân Mình của
Đức Kitô
12. Giáo hội là nơi chúng ta được đón nhận ơn cứu
độ do Chúa Giêsu thiết lập, đây là một cộng đồng gồm những người đã
được kết hợp trong mối tương quan mới do Đức Kitô khởi xướng (x.
Rm 8,9). Việc hiểu được tính trung gian cứu độ của Giáo hội là
một trợ lực thiết yếu để vượt thắng mọi khuynh hướng của giản lược
thuyết. Ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta không đạt được bằng
những nỗ lực riêng của từng người chúng ta như thuyết tân Pêlagiô
chủ trương. Đúng ra, ơn cứu độ có trong các mối tương quan nảy sinh
từ Con Thiên Chúa nhập thể và các mối tương quan này tạo nên sự hiệp
thông của Giáo hội. Giáo hội là một cộng đồng hữu hình bởi vì ân
sủng Đức Kitô ban cho chúng ta không chỉ là ơn cứu độ nội tại như
quan niệm tân Ngộ đạo đòi hỏi, song còn bởi vì ân sủng dẫn đưa chúng
ta vào các mối tương quan cụ thể mà chính Người đã sống. Trong mầu
nhiệm Giáo hội chúng ta được chạm đến các chi thể của Chúa Giêsu,
đặc biệt nơi các anh chị em nghèo nhất và đau khổ nhất. Vì thế, tính
trung gian cứu độ của Giáo hội, “Bí tích phổ quát về ơn cứu độ”,[19] bảo
đảm cho chúng ta rằng, ơn cứu độ không hệ tại việc tự mình thực hiện
đơn lẻ, cũng không hệ tại việc liên kết bên trong giữa cá nhân với
thần thánh. Đúng hơn, ơn cứu độ hệ tại việc được kết hợp vào sự
thông hiệp của những người cùng tham gia vào sự hiệp thông của Ba
Ngôi Thiên Chúa.
13. Cả hai quan niệm “duy cá nhân” và “thuần túy
nội tại” về ơn cứu độ đều trái ngược với nhiệm cục bí tích, qua đó
Thiên Chúa muốn cứu độ con người. Sự thông phần vào thể thức mới
trong các mối tương quan do Chúa Giêsu khởi xướng, diễn ra trong
Giáo hội nhờ vào các bí tích, trong đó Bí tích Thánh Tẩy là cửa vào,[20] và
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh.[21] Trong
đó, chúng ta có thể nhận ra sự thiếu vững chắc của các chủ trương về
tự thân cứu độ, vốn chỉ dựa hoàn toàn vào những nỗ lực của con
người. Đức tin tuyên xưng rằng, chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích
Thánh Tẩy, bí tích này đóng ấn vào chúng ta một dấu không thể phai
nhạt là thuộc về Đức Kitô và Giáo hội. Sự chuyển đổi cách sống các
mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với con người, và với
tạo thành phát sinh từ Bí tích Thánh Tẩy (x. Mt 28,19). Quả
vậy, được thanh tẩy khỏi tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khác, chúng ta
được mời gọi vào sự sống mới đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (x.
Rm 6,4). Nhờ ân sủng của bảy bí tích, các tín hữu tiếp tục tăng
trưởng và được canh tân về đời sống thiêng liêng, đặc biệt khi hành
trình tâm linh trở nên khó khăn hơn. Khi từ bỏ tình yêu của mình đối
với Đức Kitô bằng cách phạm tội, các tín hữu lại có thể được dẫn
nhập vào các mối tương quan do Đức Kitô đã khởi sự trong Bí tích Hòa
Giải, cho phép họ lại bước đi trên con đường Người đã đi (x. 1 Ga
2,6). Bằng cách này, chúng ta hy vọng hướng tới Cuộc Phán Xét Cuối,
trong đó mỗi người sẽ được phân xử theo độ chân thực của tình yêu
mình đã thể hiện (Rm 13,8-10), cách đặc biệt là đối với những
người yếu đuối nhất (x. Mt 25,31-46).
14. Nhiệm cục cứu độ cũng đối nghịch với những
khuynh hướng đề xướng một sự cứu độ thuần túy nội tâm. Thật vậy,
thuyết Ngộ đạo tự liên kết với quan điểm tiêu cực về trật tự được
tạo dựng, trật tự này bị hiểu là sự giới hạn tự do tuyệt đối của
tinh thần nhân loại. Vì thế, ơn cứu độ bị hiểu là sự giải thoát khỏi
thể xác và các mối tương quan cụ thể mà con người đang sống. Ơn cứu
độ đích thực, trái nghịch với tình trạng giải thoát khỏi thân xác,
còn bao gồm cả việc thánh hoá thân xác (x. Rm 12,1) đến mức
chúng ta được cứu độ nhờ “việc hiến dâng thân mình làm lễ tế của Đức
Kitô Giêsu” (Dt 10,10; x. Cl 1,22). Thân xác con người
được Thiên Chúa nặn hình, Ngài khắc vào đó một ngôn ngữ mời gọi con
người nhận biết các tặng ân của Đấng Tạo Dựng và sống thông hiệp với
anh chị em của mình.[22] Đấng Cứu Độ tái lập
và canh tân ngôn ngữ nguyên thủy này qua Mầu nhiệm Nhập Thể và Phục
sinh của Người, đồng thời thông truyền mầu nhiệm ấy trong nhiệm cục
các bí tích. Nhờ có các bí tích, các Kitô hữu mới có thể sống trung
thành với máu thịt Đức Kitô và nhờ đó, trung thực với thể thức tương
giao mà Người đã ban cho. Thể thức tương giao này, đặc biệt đòi hỏi
phải chăm sóc hết thảy nhân loại khổ đau bằng các công việc của lòng
thương xót về phương diện tinh thần cũng như thể xác.[23]
VI. Kết luận: Thông truyền đức tin, mong đợi
Đấng Cứu Độ
15. Việc hiểu biết đầy đủ về sự sống mà Đức Kitô,
Đấng Cứu Độ giới thiệu cho chúng ta, sẽ thúc đẩy các Kitô hữu hướng
tới sứ vụ loan báo cho mọi người niềm vui và ánh sáng của Tin Mừng.[24] Trong
công trình này, các Kitô hữu cũng phải được chuẩn bị – để thiết lập
với các tín hữu của các tôn giáo khác cuộc đối thoại chân thành và
xây dựng – với niềm tin rằng Thiên Chúa có thể dẫn đưa “tất cả những
ai có thiện chí được ơn thánh tác động một cách vô hình trong tâm
hồn”[25] tới ơn cứu độ trong Đức Kitô. Trong
khi tận hiến mọi nỗ lực của mình cho công cuộc loan báo Tin Mừng,
Giáo hội tiếp tục khẩn cầu cuộc quang lâm tất định của Đấng Cứu Độ,
bởi chính trong “hy vọng mà chúng ta được cứu độ” (x. Rm
8,24). Công trình cứu độ nhân loại sẽ chỉ hoàn tất sau khi đã chinh
phục được kẻ thù cuối cùng là sự chết (x. 1 Cr 15,26), khi ấy
chúng ta sẽ tham gia cách đầy đủ vào vinh quang của Chúa Giêsu Phục
sinh, Đấng sẽ đưa tới mức độ viên mãn mối tương quan của chúng ta
với Thiên Chúa, với anh chị em của mình và với toàn thể tạo thành.
Cứu độ cả xác lẫn hồn là định mệnh chung cuộc mà Thiên Chúa kêu gọi
toàn thể nhân loại hướng đến. Được xây nền trong đức tin, được nâng
đỡ nhờ đức cậy, và hoạt động trong đức ái, theo gương Đức Maria, Mẹ
Đấng Cứu Độ và là người đầu tiên trong những người được hưởng ơn cứu
độ, chúng ta chắc chắn rằng “quê hương chúng ta ở trên trời, và
chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Kitô Giêsu từ trời đến cứu chúng ta.
Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà
biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang
của Người” (Pl 3,20-21).
Lá thư này được Phiên họp khoáng đại của Bộ
Giáo lý Đức Tin thông qua ngày 24-01-2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô
đã chuẩn y vào ngày 16-02-2018, và ban lệnh phát hành thư.
Rôma, từ Văn phòng Bộ Giáo lý Đức Tin, ngày
22-02-2018, dịp lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô.
+ Luis F. Ladaria, S.I. Tổng Giám mục hiệu tòa
Thibica
Tổng trưởng |
|
+ Giacomo Morandi Tổng Giám mục hiệu tòa
Cerveteri,
Thư ký |
[1] Công đồng
Vatican II, Hiến chế tín lý về Mặc Khải Thiên Chúa Dei Verbum,
2.
[2] X. Bộ Giáo lý
Đức Tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (ngày 6/8/2000), 5-8: AAS
92 (2000), 745-749.
[3] X. Đức Giáo
hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 67:
AAS 105 (2013), 1048.
[4] X. Id., Thông
điệp Lumen fidei (29/6/2013), 47: AAS 105 (2013), 586-587;
Tông huấn Evangelii gaudium, 93-94: AAS (2013), 1059; Diễn
văn gởi các tham dự viên Công nghị lần thứ Năm của Giáo hội Ý
(10/11/2015), Florence: AAS 107 (2015), 1287.
[5] X. Id., Diễn
văn gởi các tham dự viên Công nghị lần thứ Năm của Giáo hội Ý
(10/11/2015), Florence: AAS 107 (2015), 1288.
[6] X. Id., Tông
huấn Evangelii gaudium, 94: AAS 105 (2013), 1059: “sự hấp dẫn
của thuyết Ngộ đạo, một đức tin hoàn toàn chủ quan, chỉ bận tâm đến
kinh nghiệm nào đó hoặc một tập hợp các ý tưởng và những mẩu kiến
thức được cho là có khả năng an ủi và soi sáng, nhưng chung cuộc chỉ
giam hãm con người trong những tư tưởng và tình cảm của riêng mình”;
Hội đồng Giáo hoàng về Văn hoá-Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên
tôn, Đức Giêsu Kitô Đấng mang nước hằng sống. Một suy tư Kitô
giáo về trào lưu “Thời Đại Mới” (01/2003), Thành phố Vatican,
2003.
[7] Đức Giáo hoàng
Phanxicô, Thông điệp Lumen fidei, 47: AAS 105 (2013),
586-587.
[8] X. Id., Diễn
văn gởi các tham dự viên cuộc hành hương của Giáo phận Brescia
(22/6/2013): AAS 95 (2013), 627: “trong thế giới này, nơi người ta
chối bỏ con người, nơi người ta thích đi theo đường lối của Ngộ đạo,
[...] của “không thân xác” – một Thiên Chúa đã không mặc lấy xác
phàm [...]”.
[9] Theo lạc thuyết
Pêlagiô, được phát triển vào thế kỷ thứ năm quanh Pêlagiô, để chu
toàn những giới luật của Thiên Chúa và để được cứu độ, con người chỉ
cần đến ân sủng như một sự trợ giúp từ bên ngoài cho tự do của mình
(như ánh sáng, sức mạnh chẳng hạn), chứ không như một sự chữa lành
và tái tạo tận căn tự do, không cần công trạng đi trước, cho đến khi
con người có thể làm điều thiện và đạt đến sự sống vĩnh cửu.
Nổi lên vào thế kỷ thứ nhất và thứ hai, phong
trào Ngộ đạo còn phức tạp hơn với những hình thức khác nhau. Cách
chung, những người theo thuyết Ngộ đạo tin rằng ơn cứu độ đạt được
nhờ một tri thức bí nhiệm hoặc sự Ngộ đạo. Sự Ngộ đạo này tỏ lộ cho
người Ngộ đạo biết được bản thể đích thật của họ, nói cách khác, một
tia sáng của Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ ở nội tâm họ. Tia sáng này
phải được giải thoát khỏi thân xác, vốn xa lạ với nhân tính chân
thật của họ. Duy chỉ bằng cách này, người Ngộ đạo trở về với hữu thể
nguyên tuyền của họ trong Thiên Chúa, Đấng họ đã lìa xa vì sự sa ngã
nguyên thuỷ.
[10] X. Thánh Tôma
Aquinô, Summa theologiae, I-II, q.2.
[11] X. Thánh
Âutinh, Tự thuật, I, 1: Corpus Christianorum, 27, 1.
[12] Công đồng
Vatican II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay
Gaudium et spes, 22.
[13] Uỷ ban Thần
học Quốc tế, Những câu hỏi chọn lọc liên quan đến thần học về
Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ (1995), 2.
[14] Đức Giáo hoàng
Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus caritas est (25/12/2005), 1: AAS 98
(2006), 217; x. Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii
gaudium, 3: AAS 105 (2013), 1020.
[15] Thánh Irênê, Adversus
haereses, III, 19,1: Sources Chrétiennes, 211, 374.
[16] Công đồng
Vatican II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay Gaudium
et spes, 22.
[17] X. Thánh
Âutinh, Tractatus in Ioannem, 13,4: Corpus Christianorum,
36,132: “‘Thầy là đường là sự thật và là sự sống’ (Ga 14,6). Nếu bạn
tìm kiếm sự thật ấy, hãy đi theo con đường ấy, vì con đường ấy cũng
chính là sự thật ấy. Đích bạn nhắm và con đường bạn đi là một. Bạn
không thể đến đích bằng việc đi con đường khác, bạn cũng không thể
đến với Chúa Kitô qua một con con đường khác. Bạn chỉ có thể đến với
Chúa Kitô qua Chúa Kitô. Đến với Chúa Kitô qua Chúa Kitô có nghĩa là
gì? Bạn đến với Chúa Kitô là Thiên Chúa qua Chúa Kitô là con người.
Qua Ngôi Lời làm người, bạn đến được với Ngôi Lời mà ngay từ khởi
nguyên là Thiên Chúa và ở với Thiên Chúa.”
[18] Thánh Tôma
Aquinô, Quaestio de veritate, q. 29, a. 5, co.
[19] Công đồng Vatican
II, Lumen gentium, số 48.
[20] X. Thánh Tôma
Aquinô, Summa theologiae, III, q. 63, a. 3.
[21] X. Công đồng
Vatican II, Lumen gentium, số 11; Sacrosanctum Concilium,
số 10.
[22] X. Đức Giáo
hoàng Phanxicô, Thông điệp Laudato si’, số 155: AAS 107
(2015), 909-910.
[23] X. Tông thư Misericordia
et misera (20/11/2016), 20: AAS 108 (2016), 1325-1326.
[24] Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio (7/12/1990),
40: AAS 83 (1991), 287-288; Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii
gaudium, 9-13: AAS 105 (2013), 1022-1025..
[25] Công đồng
Vatican II, Gaudium et spes, 22.
|